Người thân biệt tích 3 năm nay không thấy về thì có bị tòa án tuyên bố mất tích hay không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015, một người bị Tòa án tuyên bố mất tích khi có các điều kiện sau:
Tuyên bố mất tích
1. Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
Theo đó, khi một người thân biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Như vậy, đối chiếu quy định trên thì trường hợp có người thân biệt tích 3 năm nay không thấy về mà đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết.
Lúc này thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người thân biệt tích trở thành người mất tích.
Người thân biệt tích 3 năm nay không thấy về thì có bị tòa án tuyên bố mất tích hay không? Có để lại 2 cây vàng thì tài sản này giải quyết ra sao? (Hình từ Internet)
Người thân biệt tích 3 năm có để lại 2 cây vàng thì tài sản này giải quyết ra sao?
Căn cứ vào Điều 69 Bộ luật Dân sự 2015 về quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích như sau:
Quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích
Người đang quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại Điều 65 của Bộ luật này tiếp tục quản lý tài sản của người đó khi người đó bị Tòa án tuyên bố mất tích và có các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 66 và Điều 67 của Bộ luật này.
Trường hợp Tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.
Theo quy định trên thì người quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích là người được quy định tại Điều 65 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú
1. Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án giao tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú cho người sau đây quản lý:
a) Đối với tài sản đã được người vắng mặt ủy quyền quản lý thì người được ủy quyền tiếp tục quản lý;
b) Đối với tài sản chung thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý;
c) Đối với tài sản do vợ hoặc chồng đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý.
2. Trường hợp không có những người được quy định tại khoản 1 Điều này thì Tòa án chỉ định một người trong số những người thân thích của người vắng mặt tại nơi cư trú quản lý tài sản; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.
Như vậy, chiếu theo quy định trên thì sau khi người thân biệt tích 3 năm thì có thể báo cho Tòa án để tiến hành tuyên bố mất tích và lúc này người quản lý tài sản của người bị tòa án tuyên bố mất tích cũng sẽ do Tòa án giao cho người quản lý theo quy định.
Bên cạnh đó sau khi giao thì người quản lý di sản của người bị tuyên bố mất tích sẽ có các quyền và nghĩa vụ tại Điều 66 Bộ luật Dân sự 2015 và Điều 67 Bộ luật Dân sự 2015 sau đây:
Nghĩa vụ của người quản lý tài sản của người thân biệt tích
- Giữ gìn, bảo quản tài sản của người vắng mặt như tài sản của chính mình.
- Bán ngay tài sản là hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng.
- Thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ đến hạn, nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt bằng tài sản của người đó theo quyết định của Tòa án.
- Giao lại tài sản cho người vắng mặt khi người này trở về và phải thông báo cho Tòa án biết; nếu có lỗi trong việc quản lý tài sản mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Quyền của người quản lý tài sản của người thân biệt tích
- Quản lý tài sản của người vắng mặt.
- Trích một phần tài sản của người vắng mặt để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ thanh toán nợ đến hạn, nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt.
- Được thanh toán các chi phí cần thiết trong việc quản lý tài sản của người vắng mặt.
5 năm sau khi bị tuyên bố mất tích trở về thì có được tòa án hủy tuyên bố mất tích hay không?
Căn cứ vào Điều 70 Bộ luật Dân sự 2015 về hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích như sau:
Hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích
1. Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích đối với người đó.
2. Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau khi đã thanh toán chi phí quản lý.
3. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được ly hôn thì dù người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật.
4. Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Như vậy, đối chiếu quy định thì người bị tòa án tuyên bố mất tích sau 5 năm quay trở về thì sẽ được hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích và khôi phục lại quyền như một người bình thường.