Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
Hiện nay có nhiều người đang gặp phải vướng mắc liên quan đến việc xác định tư cách tố tụng của Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng trong vụ án dân sự. Trong phạm vi bài viết này Luật Hùng Bách sẽ phân tích kỹ các quy định của pháp luật hiện hành để làm rõ vấn đề này.
Quy định về Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định tại Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Cụ thể:
“Điều 74. Kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.
1. Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng.
2. Trường hợp đương sự là cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức đó được xác định như sau:
a) Trường hợp tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì cá nhân, tổ chức là thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng;
b) Trường hợp cơ quan, tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp nhà nước thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó hoặc đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức tiếp nhận các quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó tham gia tố tụng;
c) Trường hợp tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì cá nhân, tổ chức tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của tổ chức đó tham gia tố tụng.
3. Trường hợp thay đổi chủ sở hữu của tổ chức và có việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho chủ sở hữu mới thì chủ sở hữu mới kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.
4. Trường hợp tổ chức được chuyển giao quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về dân sự thì tổ chức đó kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.
5. Trường hợp tổ chức không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự mà người đại diện đang tham gia tố tụng chết thì tổ chức đó phải cử người khác làm đại diện để tham gia tố tụng; nếu không cử được người đại diện hoặc tổ chức đó phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể thì các cá nhân là thành viên của tổ chức đó tham gia tố tụng….”
Bộ luật dân sự cũng cũng có một số điều khoản quy định về người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng như Điều 92 (Chuyển đổi hình thức pháp nhân), Điều 271 (Nội dung quyền bề mặt).
Tuy nhiên trong phạm vi bài viết này chúng tôi sẽ tập trung phân tích trường hợp phổ biến nhất mà nhiều người vẫn còn thấy vướng mắc là ở Khoản 1 Điều 74 – Trường hợp đương sự là cá nhân tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng.
Hình ảnh: Hội trường xét xử vụ án dân sự.
Vụ án chưa được thụ lý thì người thừa kế có được kế thừa tham gia tố tụng? Nếu tham gia thì tư cách của người thừa kế là gì?
Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự quy định cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng. Có nghĩa quy định trên chỉ điều chỉnh đối với trường hợp cá nhân đã khởi kiện, vụ án đã được thụ lý, đã tham gia tố tụng. Vậy nếu vụ án chưa được thụ lý, chưa tham gia tố tụng thì người thừa kế có được kế thừa tham gia tố tụng không và nếu kế thừa thì tư cách tố tụng của người thừa kế là như thế nào?
Theo quan điểm chúng tôi mặc dù quy định của Bộ luật tố tụng dân sự chỉ nêu ra trường hợp cá nhân đang tham gia tố tụng nhưng kể cả trong trường hợp vụ án chưa được thụ lý thì người thừa kế vẫn phải kế thừa tham gia tố tụng. Điều này là phù hợp với quy định tại Điều 615 Bộ luật dân sự 2015 về việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
"Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Vậy khi soạn thảo đơn khởi kiện cần xác định người thừa kế như thế nào? Người thừa kế trực tiếp là bị đơn hay vẫn để người đã chết là bị đơn. Thực tế do chưa có quy định cụ thể để xác định người thừa kế trong trường hợp này là bị đơn nên Tòa án vẫn xác định bị đơn là người đã chết và bổ sung những người thừa kế là “Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn, bị đơn”.
Tuy nhiên nếu đối chiếu quy định trên của Bộ luật dân sự 2015 thì có lẽ sẽ hợp lý hơn nếu xác định người hưởng thừa kế về tài sản của người có nghĩa vụ vào trong đơn khởi kiện là bị đơn hoặc đồng bị đơn để khởi kiện vụ án dân sự. Nếu các đồng thừa kế đã có thỏa thuận nghĩa vụ tài sản do người chết để lại do người quản lý di sản thừa kế thực hiện thì bị đơn có thể là người quản lý di sản. Người quản lý di sản sẽ là người được chỉ định trong di chúc hoặc do các đồng thừa kế thỏa thuận cử ra.
Trường hợp di sản thừa kế đã được định đoạt bằng di chúc hoặc đã chia thì nguyên đơn có thể khởi kiện trực tiếp người được hưởng di sản theo di chúc, người được chia di sản thừa kế.
Người kế thừa tham gia tố tụng có đồng thời kế thừa tư cách tố tụng của nguyên đơn, bị đơn?
Khoản 1 Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự quy định :
“1. Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng.”
Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn không nói rõ người thừa kế tham gia tố tụng với tư cách gì? Là nguyên đơn, bị đơn hay là người có quyền, nghĩa vụ liên quan nên thực tế việc xác định tư cách tố tụng trong trường hợp này có lỗ hổng nhất định về căn cứ pháp lý.
Về nguyên tắc khi thụ lý vụ án Tòa án đã xác định tư cách tố tụng của các đương sự như nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan,… Khi cá nhân tham gia tố tụng chết luật cũng không quy định phải thay đổi tư cách tố tụng của các đương sự.
Do vậy, đúng theo quy định trên thì Tòa án có thể đưa những người thừa kế của cá nhân đã chết vào tham gia tố tụng với tư cách là “Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng” còn người đã chết vẫn được xác định là nguyên đơn, bị đơn trong vụ án dân sự. Thực tế Tòa án khi giải quyết các vụ án dân sự vẫn áp dụng quy định và cách hiểu như trên để xác định tư cách tham gia tố tụng của các đương sự.
Tuy nhiên Khoản 1 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự quy định đương sự trong vụ án dân sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Khoản 4 của điều này cũng nêu rõ:
“…4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.….”
Với quy định trên nếu xác định người thừa kế tham gia tố tụng được là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự có vẻ như sẽ phù hợp hơn và tạo nên sự thống nhất trong việc xác định tư cách tố tụng của các đương sự.
Trên đây là những phân tích và nhận định của Luật Hùng Bách liên quan đến việc xác định tư cách tố tụng của Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng trong tố tụng dân sự. Với những quy định của pháp luật như trên thì có thể xác định được tương đối rõ tư cách tố tụng của người kế thừa quyền nghĩa vụ trong tố tụng nhưng để có sự thống nhất trong cách hiểu và áp dụng thì có lẽ cần có văn bản pháp luật, giải đáp của tòa án để hướng dẫn chi tiết hơn về vấn đề này.